Hành hoa là một loại gia vị không thể thiếu trong văn hóa nấu nướng của người dân Việt Nam. Hành muối là một món ăn đặc biệt trong lễ hội mùa xuân. Bộ phận làm thuốc là thân hành – Herba Allii fisculosii hoặc Bulbus Allii fisculosii. Thân hành có tinh dầu, chủ yếu là allicin và các hợp chất diallyl disulfite khác; gôm; saponin, axit béo, đường và vitamin B1, B2, C …
Đông y cho rằng cây thông bạch có vị cay nồng, tính ấm khi đi vào kinh lạc. Tác dụng giải biểu, khu phong, ôn dương, giải độc, giải độc. Chữa cảm mạo, sợ lạnh, phong hàn, sợ lạnh, không có mồ hôi; ngoại nhiệt, tay chân lạnh, mạch yếu, tiêu chảy; đau bụng do giun, bí tiểu cấp tính; giải độc do ăn cua, cá. Mỗi ngày dùng 5-40g làm thức ăn, dùng tươi.
Bài thuốc từ hành hoa
Tán hàn, giải biểu
Thông bạch 12g, đậu xị 12g. Sắc uống. Trị cảm mạo phong hàn mới mắc và nhẹ.
Hoạt huyết, thông dương
Thông bạch 40g, can khương 12g, phụ tử 12g. Sắc uống. Trị đi tả cấp tính, chân tay lạnh, mạch nhỏ.
Hành hoa trị giun, giảm đau
Thông bạch 40g, dầu lạc hay dầu gai hoặc ôliu 40g. Thông bạch nghiền và ép lấy nước, trộn đều với dầu để uống. Hoặc uống thông bạch trước uống dầu sau, hoặc ngược lại đều được. Trị giun đũa làm tắc đường mật hoặc ruột bị tắc cứng do giun.
Món ăn cho bệnh nhân ngoại cảm phong hàn, đau bụng nôn ói
Cháo hành giải cảm: hành sống 1-3 củ; gừng tươi 3 lát. Giã nát cho vào bát tô, đổ cháo trắng đang sôi vào, khuấy đều, thêm đường, muối tùy ý. Ăn nóng.
Món ăn cho người đau bụng do lạnh, buồn nôn, nôn ra nước trong
Thông tiêu ẩm: hành 20g, gừng tươi 10g, bột tiêu 3g. Giã nát, hãm nước sôi, uống.
Món ăn trị cảm
Món ăn cho người bị cảm mạo phong hàn, đau đầu, đau tức vùng ngực không có mồ hôi, sợ gió sợ lạnh kèm theo đau bụng buồn nôn, tiêu chảy
Thông xị thang: hành tươi cả rễ 30g, gừng tươi 8g, đạm đậu xị 12g, rượu nhạt (hoàng tửu) 30ml. Hành đem rửa sạch thái lát, gừng đập giập. Cả 3 vị thuốc cho vào nồi, thêm 500ml nước, đun sôi, cho tiếp rượu vào, khuấy đều, gạn lấy nước thuốc. Uống nóng làm vã mồ hôi.
Suy nhược thần kinh
Món ăn cho người suy nhược thần kinh, suy nhược cơ thể sau chữa bệnh lâu ngày, mất ngủ, đau nhức gân xương: Thông táo thang: đại táo 20 quả, củ hành có rễ và lá 7 củ. Đại táo rửa sạch ngâm mềm, cho thêm 1 bát nước đun nhỏ lửa 20 phút, cho tiếp hành đã rửa sạch thái lát, tiếp tục đun 10 phút, để nguội. Ăn táo và uống nước.
Dành cho những người hay hoảng sợ
Món ăn cho người bị kinh động do sấm chớp, đụng tàu xe, đổ đất đá, tuy không gây chấn thương nhưng gây đau tức vùng ngực lưng: Canh mướp hành củ cải: cải củ 150g, mướp 100g, hành 10g. Cải củ và mướp gọt vỏ thái miếng, nấu với nước lượng thích hợp, trước khi bắc ra cho hành thái lát và gia vị mắm muối.
Chữa tiểu tiện không lợi
Củ hành hoa 5g, gián đất 1 con, giã nát, băng đắp vào rốn. Tiếp đó có thể dùng bài thuốc sau: hành 20g, mã đề 20g, râu ngô 15g, rễ cỏ tranh 15g. Sắc uống ngày 1 thang.
Chữa tai biến mạch máu não
Ngay khi mới bị, hành một nắm nhỏ, giã nát hòa với nước tiểu trẻ em. Vắt lấy nước uống.
Chữa viêm tuyến vú
Hành 20 – 30g, giã nát, hấp nóng. Đắp chườm vào chỗ đau.
Chữa chín mé
Củ hành nướng chín, đập dập đắp vào chỗ đau.
Chữa u xơ tiền liệt tuyến
Củ hành to 5 củ, phèn chua 9g. Nghiền phèn chua thành bột mịn, giã nát với củ hành thành dạng hồ, băng đắp vào rốn.
Chữa động thai ra máu
Hành củ 20g, giã nát. Ăn với cháo gạo nếp khi còn nóng.
Chữa cảm sốt nhức đầu
Hành củ 30g, gừng tươi 20g, chè búp khô 8g, tía tô 6g. Sắc thuốc xong, cho bệnh nhân uống làm 2 lần trong ngày. Uống lúc thuốc còn nóng.
Chữa xơ vữa động mạch
Củ hành 60g, giã nát cùng 60g mật ong đun sôi kỹ, quấy đều, sau khi nguội cho vào bình đã khử khuẩn để dùng dần. Ngày 2 lần, mỗi lần 5- 7g, uống với nước sôi. 7 ngày là 1 đợt điều trị. Lúc uống bỏ bã hành ra.
Chữa bí đái, bụng dưới trướng đau
Củ hành, ruột ốc ruộng. Lượng bằng nhau, cùng giã nát, đun chín, dán vào huyệt quan nguyên (cách dưới rốn khoảng 3 tấc ta).
Chữa đau thần kinh sườn
Củ hành tươi 100g, gừng sống 2 củ, củ cải trắng 2 miếng. Giã nát, sao nóng bọc vào túi vải hơ nóng đắp vào chỗ đau.
Hành muối
Có mùi thơm, vị cay, tính ấm, không độc. Tác dụng phát tán giải cảm, ôn trung, thông dương, hoạt huyết, giải được chứng uất do bên ngoài gây nên. Khi lên men làm mất vị cay, loại bỏ tính phát tán mà giữ lại tính tiêu thực, ôn trung, giải uất, rất hợp khi ăn với thịt mỡ hay thịt quay trong mùa lạnh.
Kiêng kỵ
Người biểu hư đa hãn (ra mồ hôi nhiều), âm hư nội nhiệt, viêm kết mạc kiêng dùng.
Nguồn: 24h.com.vn